Tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công
dân đã được Hiến pháp và pháp luật quy định, cụ thể hóa quy định của hiến pháp,
đồng thời trên cơ sở hoàn thiện các quy định pháp luật về tố cáo, ngày 11-11-2011, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Luật Tố cáo năm
2011, gồm có 08 Chương, 50 Điều thay thế Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, được
sửa đổi bổ sung vào năm 2004 và năm 2005. Trong đó, các quy định về quyền và
nghĩa vụ của người tố cáo được quy định rất hoàn chỉnh và tỉ mỉ đã tạo ra cơ sở
pháp lý và thuận lợi cho công dân trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ
trong tố cáo. Để thực hiện tốt quyền này, người tố cáo cần nắm vững và thực hiện
tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, xác định được thế nào là tố cáo,
ai có quyền tố cáo và ai bị tố cáo: Tố cáo theo quy định tại Khoản 1, Điều 2, Luật Tố cáo năm 2011 được quy định
như sau: “Tố cáo là việc công dân
theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, cơ quan, tổ chức” Theo
quy định trên thì, người có quyền tố cáo là công dân, chỉ công dân mới có quyền
tố cáo. Cơ quan, tổ chức không có quyền tố cáo. Người bị tố cáo là người có
hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo.
Thứ hai, xác
định hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo và khi nào công dân thực hiện thực hiện
quyền tố cáo: Theo quy định của Luật
Tố cáo năm 2011, đối tượng bị tố cáo bao gồm hai nhóm hành vi vi phạm pháp luật:
Thứ nhất, hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong khi
thực hiện nhiệm vụ, công vụ;
Thứ hai, hành vi vi phạm pháp luật
của cơ quan, tổ chức, các nhân về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực, kể cả vi
phạm của cán bộ, công chức, viên chức ngoài phạm vi thực hiện nhiệm vụ, công vụ
và vi phạm của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam.
Công dân khi phát hiện hành vi vi
phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong khi thực hiện nhiệm vụ,
công vụ hoặc hành vi vi phạm của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào thì công
dân có quyền tố cáo đến cơ quan hoặc người có thẩm quyền để được xem xét giải
quyết.
Thứ ba, xác
định hình thức tố cáo: Việc tố cáo
được thực hiện được thực hiện theo một trong hai hình thức sau:
- Tố cáo được thực hiện bằng đơn,
đơn tố cáo phải có đầy đủ các nội dung sau:
Ngày, tháng, năm tố cáo; Họ và tên, địa chỉ của người tố cáo; tên, địa
chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị tố cáo; Nội dung tố cáo; Chứng cứ tài liệu
liên quan đến tố cáo; Đơn tố cáo phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của người tố cáo.
Trường hợp nhiều người tố cáo bằng
đơn thì đơn cũng phải có đầy đủ nội dung theo quy định, đồng thời phải có chữ
ký hoặc điểm chỉ của tất cả người tố cáo; họ và tên, địa chỉ của người đại diện
tố cáo để phối hợp khi có yêu cầu của người
giải quyết tố cáo.
- Người tố cáo thực hiện tố cáo trực
tiếp thì sẽ được cán bộ tiếp công dân có trách nhiệm hướng dẫn người tố cáo viết
thành đơn theo các nội dụng như trên hoặc ghi lại nội dung tố cáo của công dân
và yêu cầu công dân ký hoặc điểm chỉ vào văn bản.
Trường hợp nhiều người tố các trực
tiếp thì được cán bộ tiếp dân hướng dẫn cử người đại diện trình bày nội dung tố
cáo, cán bộ tiếp công dân có trách nhiệm ghi đầy đủ nội dung theo quy định.
Thứ năm, xác
định thẩm quyền giải quyết tố cáo: Việc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo
được thực hiện theo nguyên tắc sau (Điều 12, Luật Tố cáo năm 2011):
- Tố
cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ,
công chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý
cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết.
- Tố
cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người
đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ
quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết.
- Tố
cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ,
công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của nhiều cơ quan, tổ chức do người
đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức bị tố
cáo phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan giải quyết.
- Tố
cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ,
công chức, viên chức có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết
theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
Theo
đó, thẩm quyền giải quyết tố cáo được quy định từ Điều 13 đến Điều 17 và Điều
31, Luật Tố cáo năm 2011. Cụ thể như sau:
- Về thẩm
quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức,
viện chức trong các cơ quan hành chính nhà nước được quy định tại Điều 13 gồm: Thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn; thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; thẩm quyền giải quyết tố
cáo của Người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương; thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thẩm quyền giải quyết tố cáo của Tổng
cục trưởng, Cục trưởng và cấp tương đương; thẩm quyền giải quyết tố cáo của Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và thẩm quyền giải quyết tố cáo của Thủ tướng
Chính phủ.
- Thẩm quyền giải quyết tố cáo trong các lĩnh vực
khác: Ngoài quy định
cụ thể về thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ,
công chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan hành chính thì Luật Tố
cáo năm 2011 còn quy định về thẩm quyền
giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công
vụ của cán bộ, công chức trong cơ quan khác như:
+ Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân các cấp có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật
trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức do mình quản lý trực tiếp; giải
quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của
Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp
dưới.
+ Tổng Kiểm toán Nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố
cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Kiểm
toán trưởng, Phó Kiểm toán trưởng Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán
Nhà nước khu vực và công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
+ Kiểm toán
trưởng Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán Nhà nước khu vực có thẩm quyền
giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công
vụ của công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
+ Người đứng đầu cơ quan khác của Nhà nước có thẩm
quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ,
công vụ của công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
+ Cơ quan có thẩm quyền quản lý đối với cán bộ là đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có thẩm quyền giải quyết tố
cáo hành vi vi phạm pháp luật trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ do
mình quản lý.
+ Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập có
thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong thực hiện
nhiệm vụ của viên chức do mình tuyển dụng, bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
+ Người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý đơn vị
sự nghiệp công lập có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp
luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của viên chức quản lý do mình bổ nhiệm.
+ Người đứng đầu cơ quan của tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật
trong việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức do mình quản lý
trực tiếp.
Hiện nay, tại các cơ quan nhà nước, ngoài các đối tượng
là cán bộ, công chức, viên chức còn có một số đối tượng khác cũng được giao thực
hiện một số nhiệm vụ, công vụ có tính chất tương tự như cán bộ, công chức. Để
tránh tình trạng không xác định được người có thẩm quyền giải quyết tố cáo khi
có tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng nói trên trong việc thực
hiện nhiệm vụ, công vụ, Điều 17 Luật Tố cáo đã quy định người đứng đầu cơ quan,
đơn vị quản lý trực tiếp người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà không
phải là cán bộ, công chức, viên chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật của người đó trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
- Thẩm
quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước
trong các lĩnh vực:
Nhằm
giúp người tố cáo tố cáo hành vi vi phạm pháp luật tới đúng cơ quan, người có
thẩm quyền giải quyết tố cáo, hạn chế trường hợp đơn thư tố cáo lòng vòng, hiệu
quả giải quyết thấp, Điều 31 Luật Tố cáo 2011 đã quy định thẩm quyền giải quyết
tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực.
Theo đó, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà nội
dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan đó có
trách nhiệm giải quyết. Người có thẩm quyền xử
lý vi phạm hành chính trong cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố
cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý được giao, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Tố cáo có nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước
của nhiều cơ quan thì các cơ quan có trách nhiệm phối hợp để xác định thẩm quyền
giải quyết hoặc báo cáo cơ quan quản lý nhà nước cấp trên quyết định giao cho một
cơ quan chủ trì giải quyết; tố cáo có nội dung thuộc thẩm quyền giải quyết của
nhiều cơ quan thì cơ quan thụ lý đầu tiên có thẩm quyền giải quyết.
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong
các lĩnh vực có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo
quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
Thứ sáu, xác định
quyền và nghĩa vụ của người tố cáo: Khi thực hiện tố cáo người tố cáo có các
quyền sau đây:
-
Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật;
-
Được giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác của
mình;
-
Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông báo về việc thụ lý giải
quyết tố cáo, thông báo chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm quyền giải
quyết, thông báo kết quả giải quyết tố cáo;
-
Tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo
không được giải quyết;
-
Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trả thù,
trù dập;
-
Được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Ngoài
thực hiện các quyền do pháp luật quy định, người tố cáo có các nghĩa vụ sau:
-
Nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình;
-
Trình bày trung thực về nội dung tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan
đến nội dung tố cáo mà mình có được;
-
Chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo của mình;
-
Bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra.
Thứ bảy, xác định thời hạn giải quyết tố
cáo: Thời hạn giải quyết tố cáo là
60 ngày kể từ ngày thụ lý tố cáo, đối với những vụ việc phức tạp thời hạn giải
quyết là 90 ngày kể từ ngày thụ lý giải quyết.
Trường
hợp cần thiết người giải quyết tố cáo có
thể gia hạn giải quyết một lần nhưng không quá 30 ngày, đối với những vụ việc
phức tạp thì không quá 60 ngày.
Hết
thời hạn giải quyết tố cáo mà tố các không được giải quyết hoặc có căn cứ cho rằng
việc giải quyết tố cáo không đúng quy định của pháp luật thì người tố cáo có
quyền tố cáo tiếp tới người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người giải
quyêt tố cáo. (Điều 27)
Thứ tám, quy định việc bảo vệ người tố cáo: Luật Tố cáo đã bổ sung một chương mới, gồm 07 Điều (Điều 34 đến Điều
40) quy định về việc bảo vệ người tố cáo. Cụ thể như sau:
-
Phạm vi, đối tượng và thời hạn bảo vệ người tố cáo: Điều 34 của Luật quy định
việc bảo vệ người tố cáo được thực hiện tại nơi cư trú, công tác, làm việc, học
tập, nơi có tài sản của người cần được bảo vệ hoặc những nơi khác do cơ quan có
thẩm quyền quy định. Đối tượng bảo vệ gồm người tố cáo và người thân thích của
người tố cáo. Thời hạn bảo vệ do cơ quan có thẩm quyền quyết định tuỳ thuộc vào
tình hình thực tế của từng vụ việc, mức độ, tính chất của hành vi xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng cần được bảo vệ.
- Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo được bảo
vệ
Điều 35, Luật Tố cáo quy định, người tố cáo được quyền: Yêu cầu
người giải quyết tố cáo, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ
mình hoặc người thân thích của mình khi có căn cứ xác định việc bị kỷ luật, buộc
thôi việc, luân chuyển công tác hoặc bị các hình thức trù dập, phân biệt đối xử
khác, bị đe dọa xâm hại hoặc xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do việc tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật. Được thông báo về biện pháp bảo vệ được áp dụng; đề nghị thay đổi
biện pháp bảo vệ nếu có căn cứ cho rằng biện pháp đó không bảo đảm an toàn; được
từ chối áp dụng biện pháp bảo vệ. Yêu cầu gia hạn thời hạn bảo vệ; yêu cầu bảo
vệ lại. Được bồi thường theo quy
định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong trường hợp người
tố cáo yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp cần
thiết để bảo vệ mình mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân đó không áp dụng hoặc áp
dụng không kịp thời, không đúng quy định của pháp luật, gây thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe, tài sản, tổn thất về tinh thần cho người được bảo vệ.
Đồng
thời, người tố cáo có nghĩa vụ sau đây: Gửi văn bản yêu cầu bảo vệ trong trường
hợp quy định tại các điều 37, 38 và 39 của Luật Tố cáo đến người giải quyết tố
cáo hoặc cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ người tố
cáo. Trong trường hợp khẩn cấp, có thể gặp trực tiếp hoặc thông qua các hình thức
thông tin khác để yêu cầu được bảo vệ ngay nhưng sau đó phải gửi văn bản yêu cầu
chính thức đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ. Cung cấp thông tin, tài liệu, căn cứ xác định việc
bị xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm,
uy tín hoặc quyền, lợi ích hợp pháp khác là xác thực và phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về thông tin, tài liệu đã cung cấp. Tuân thủ yêu cầu mà
cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bảo vệ đưa ra có liên quan đến công tác bảo vệ;
không được tiết lộ biện pháp bảo vệ cho người khác biết.
-
Nội dung bảo vệ người tố cáo:
+ Người tố cáo được bảo vệ bí mật thông tin: Điều
36,
Luật Tố cáo quy định về bảo vệ bí mật, thông tin về người tố
cáo: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khi tiếp nhận tố cáo, giải quyết
tố cáo, khai thác, sử dụng thông tin, tài liệu do người tố cáo cung cấp có
trách nhiệm giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác
của người tố cáo; đồng thời áp dụng biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc đề
nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có biện pháp cần thiết để giữ bí mật thông
tin và bảo vệ cho người tố cáo”. Như vậy, theo quy định thì các cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền tiếp nhận thông tin về người tố cáo trong quá trình tiếp
nhận, giải quyết tố cáo có trách nhiệm bảo đảm giữ bí mật các thông tin này không
kể người tố cáo có yêu cầu hay không yêu cầu.
+
Việc bảo vệ người tố cáo tại nơi công
tác, làm việc: Điều 37, Luật Tố cáo quy định, người tố cáo được bảo đảm
vị trí công tác, không bị phân biệt đối xử về việc làm dưới mọi hình thức.
Không được trả thù, trù dập, đe doạ, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người tố cáo. Khi người tố cáo có căn cứ cho rằng bị phân biệt đối xử
về việc làm dẫn đến giảm thu nhập, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
mình thì có quyền yêu cầu người đã giải quyết tố cáo hoặc người đứng đầu cơ
quan cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền quản lý, sử dụng mình có biện
pháp xem xét, xử lý đối với người có hành vi đó; người tố cáo là người làm việc
theo hợp đồng lao động có quyền yêu cầu tổ chức công đoàn cơ sở, cơ quan quản
lý lao động địa phương có biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Khi
nhận được yêu cầu của người tố cáo, người có thẩm quyền có trách nhiệm kiểm
tra, xác minh; nếu yêu cầu của người tố cáo là chính đáng thì áp dụng các biện
pháp theo thẩm quyền hoặc yêu cầu người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo
vệ theo quy định.
+
Người tố cáo được bảo vệ tại nơi cư trú: Điều 38, Luật Tố cáo quy định người tố
cáo không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công
dân tại nơi cư trú và trách nhiệm này thuộc về Uỷ ban nhân dân các cấp trong
nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Khi người tố cáo cho rằng bị phân biệt đối xử
trong thực hiện quyền, nghĩa vụ nơi cư trú thì có quyền yêu cầu người đã giải
quyết tố cáo để người giải quyết tố cáo yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có
thẩm quyền để có biện pháp bảo vệ, khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của
người tố cáo đã bị xâm phạm, đồng thời xem xét, xử lý người có hành vi vi phạm.
Khi nhận được yêu cầu của người giải quyết
tố cáo về việc áp dụng biện pháp bảo vệ đối với người tố cáo, Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân có trách nhiệm kiểm tra, xác minh, quyết định áp dụng các biện pháp
theo thẩm quyền để bảo vệ đã được Luật Tố cáo quy định.
+ Việc bảo vệ tính mạng, sức
khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tố: Điều 39, Luật Tố cáo quy định, khi người giải quyết
tố cáo nhận được thông tin người tố cáo bị đe doạ, trả thù, trù dập thì có
trách nhiệm chỉ đạo hoặc phối hợp với cơ quan công an hoặc cơ quan khác có thẩm
quyền có biện pháp kịp thời ngăn chặn, bảo vệ người tố cáo và đề nghị cơ quan
có thẩm quyền xử lý theo quy định pháp luật đối với người có hành vi đe dọa, trả
thù, trù dập người tố cáo.
Khi người tố cáo có căn cứ cho rằng việc tố
cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của
mình hoặc của người thân thích của mình thì có quyền yêu cầu người giải quyết tố
cáo hoặc cơ quan công an áp dụng biện pháp bảo vệ cần thiết. Trường hợp đề nghị
của người tố cáo là chính đáng thì người giải quyết tố cáo hoặc cơ quan công an
kịp thời áp dụng các biện pháp hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các
biện pháp để bảo vệ đã được quy định trong Luật./.
Văn chiêu