Liên kết website
 

 HÌNH QUẢNG CÁO

 
Lượt truy cập
 

 Tin trong ngành

 
Tuyên truyền, phổ biến Luật Du lịch, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hội nghị tập huấn Báo cáo viên pháp luật quý 1/2018 Cập nhật: 18-04-2018 05:51
Triển khai Luật Du lịch; Quyết định số 718/QĐ-BVHTTDL; Kế hoạch số 118-KH/TU ngày 07/7/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa

​           Thực hiện Kế hoạch số 407/KH-UBND ngày 15/01/2018 của UBND tỉnh Đồng Nai về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, chuẩn tiếp cận pháp luật, xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước năm 2018 và chương trình trọng tâm công tác Tư pháp năm 2018. Sáng ngày 11/4/2018, Sở Tư pháp đã tổ chức Hội nghị tập huấn báo cáo viên pháp luật quý 1/2018.

          Nội dung tập huấn: Luật Du lịch; Quyết định số 718/QĐ-BVHTTDL; Kế hoạch số 118-KH/TU ngày 07/7/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. 

Tap-huan-BCV-(thang-4)-2.jpg 
 
 

                 Tiếp theo bà Đặng Thanh Thủy – Phó Giám đốc Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Đồng Nai – Báo cáo viên - triển khai Luật Du lịch số 09/2017/QH14 (kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 19/6/2017).

Nội dung cơ bản của Luật Du lịch số 09/2017/QH14:

Luật du lịch sửa đổi đã được rút gọn xuống còn 9 chương và 78 điều nhằm chuyền tải những nội dung đúng đắn và mới mẻ theo Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, trên cơ sở lấy du khách làm trọng tâm và khẳng định du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp mũi nhọn. Về các thuật ngữ, Luật đã bổ sung thêm một số thuật ngữ như sản phẩm du lịch, hướng dẫn viên du lịch, cơ sở lưu trú du lịch, xúc tiến du lịch đồng thời sửa lại định nghĩa của một số thuật ngữ nhằm đảm bảo tính hiện đại và liên thông của các thuật ngữ này. Về điều kiện kinh doanh lữ hành, Luật năm 2005 quy định khá chi tiết điều kiện kinh doanh lữ hành, nhưng lại rất đơn giản về điều kiện kinh doanh lữ hành nội địa. Điều kiện kinh doanh lữ hành đang tồn tại nhiều mâu thuẫn cần tháo gỡ. Trong đó pháp luật quy định doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế phải có giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế. Trên thực tế, giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế là một hình thức để cơ quan có thẩm quyền công nhận việc doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế đã đảm bảo đủ điều kiện kinh doanh (bao gồm cả việc ký quỹ đặt cọc để đảm bảo đền bù cho khách nếu doanh nghiệp vi phạm pháp luật). Tuy nhiên, doanh nghiệp lữ hành nội địa lại không yêu cầu phải có giấy phép, không phải ký quỹ đặt cọc, không quy định bắt buộc các doanh nghiệp lữ hành nội địa phải báo cáo về hoạt động. Như vậy là không có sự đồng bộ với hệ thống pháp luật và tạo sự bất công bằng giữa các doanh nghiệp lữ hành nội địa và quốc tế, tạo ra lỗ hổng trong quản lý các doanh nghiệp lữ hành nội địa. Khắc phục những điểm yếu trong Luật 2005, Luật du lịch sửa đổi 2017 bổ sung đối tượng phải cấp phép kinh doanh lữ hành cũng như các điều kiện bảo đảm phù hợp với quy định của Luật đầu tư nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các doanh nghiệp lữ hành. Từ đó các đơn vị chức năng sẽ tăng cường quản lý nhà nước để tránh hậu quả pháp lý do chỉ thực hiện công tác hậu kiểm, bảo đảm an toàn hơn cho du khách. Luật cũng đã bổ sung điều kiện có nghiệp vụ chuyên môn đối với Giám đốc điều hành về kinh doanh lữ hành của doanh nghiệp. Do tính chất khác nhau của kinh doanh lữ hành quốc tế và lữ hành nội địa nên ngoài sự khác biệt về mức tiền ký quỹ, Luật đòi hỏi sự khác nhau về chuyên môn, nghiệp vụ của Giám đốc điều hành doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa hoặc quốc tế. Luật cũng điều chỉnh phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo đúng mức độ mà Việt Nam đã cam kết khi tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới. Về điều kiện kinh doanh lưu trú du lịch, Luật bổ sung thêm điều kiện đảm bảo quy chuẩn đối với loại cơ sở lưu trú du lịch do Bộ trưởng Bộ VHTTDL ban hành. Quy chuẩn này sẽ quy định những điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất kỹ thuật và người lao động đối với từng loại cơ sở lưu trú du lịch nhằm bảo vệ quyền lợi của khách du lịch, đảm bảo chất lượng dịch vụ lưu trú phải bằng hoặc cao hơn mức độ tối thiểu nào đó khi đã mang danh là “du lịch” và phòng ngừa việc lạm dụng, gây hiểu nhầm về loại hình cơ sở lưu trú du lịch dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh, không minh bạch của các cơ sở lưu trú du lịch. Việc xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện. Theo đó, các tổ chức, cá nhân kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch được tự nguyện đăng ký xếp hạng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền; khách sạn, biệt thự du lịch, căn hộ du lịch, tàu thủy lưu trú du lịch được xếp hạng theo tiêu chuẩn quốc gia về xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch, công bố chất lượng dịch vụ công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như đưa vào cơ sở dữ liệu xúc tiến du lịch quốc gia. Hạng cơ sở lưu trú du lịch bao gồm 1 sao, 2 sao, 3 sao, 4 sao và 5 sao. Tổng cục Du lịch thẩm định, công nhận cơ sở lưu trú du lịch hạng 4 sao và hạng 5 sao; Cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh thẩm định, công nhận cơ sở lưu trú du lịch hạng 1 sao, hạng 2 sao và hạng 3 sao. Việc công nhận hạng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được coi như một chứng nhận về chất lượng. Cơ sở lưu trú du lịch có thể dùng chứng nhận này để phát triển thương hiệu, quảng cáo sản phẩm dịch vụ. Sau khi đăng ký và được xếp hạng, cơ sở sẽ được giới thiệu, quảng bá rộng rãi trong các hoạt động xúc tiến du lịch quốc gia và địa phương. Khách du lịch sử dụng dịch vụ lưu trú được cơ quan nhà nước xếp hạng theo tiêu chuẩn quốc gia sẽ cảm thấy an tâm, tin tưởng. Số lượng khách sử dụng cơ sở lưu trú được xếp hạng sẽ tăng lên từ đó doanh thu của doanh nghiệp tăng lên và doanh nghiệp sẽ có nhu cần đăng ký thẩm định xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch. Quy định này một lần nữa khẳng định tôn trọng quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp. Để thực hiện tốt quy định này cần tăng cường công tác hậu kiểm, nghiêm cấm hành vi tự công bố hạng sao, lợi dụng quy định mở, thông thoáng để trục lợi nhằm đảm bảo công bằng, cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở lưu trú có đăng ký xếp hạng và các cơ sở lưu trú không đăng ký xếp hạng. 

Bên cạnh các dịch vụ du lịch cơ bản là lữ hành, lưu trú, vận tải, khách du lịch còn sử dụng nhiều dịch vụ khác như ăn uống, mua sắm, thể thao, giải trí, chăm sóc sức khỏe, làm đẹp… trong quá trình đi du lịch. Việc phát triển các dịch vụ này không chỉ đáp ứng yêu cầu của khách du lịch mà còn góp phần nâng cao doanh thu từ du lịch, tạo việc làm cho xã hội. Luật đã bổ sung quy định các tổ chức, cá nhân được tạo điều kiện thuận lợi, được hỗ trợ khi phát triển các dịch vụ du lịch liên quan, đặc biệt là các dịch vụ khai thác các giá trị truyền thống như nghệ thuật biểu diễn, làng nghề, y học cổ truyền, các môn thể thao dân tộc… phục vụ khách du lịch. Các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch này ngoài việc đảm bảo quy định theo pháp luật của các ngành nghề liên quan, nếu đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch sẽ được gắn biển nhằm quảng bá, xây dựng thương hiệu cho cơ sở cũng như đảm bảo quyền lợi người sử dụng dịch vụ. 

Hướng dẫn viên du lịch là một lực lượng lao động đông đảo, đóng vai trò quan trọng, nhiều khi có vai trò quyết định mức độ hài lòng của khách du lịch. Điều 73 của luật 2005 quy định hướng dẫn viên được hành nghề khi có thẻ hướng dẫn viên và có hợp đồng với doanh nghiệp lữ hành. Tuy nhiên trên thực tế, một hướng dẫn viên du lịch có thể cùng một lúc ký hợp đồng với nhiều doanh nghiệp lữ hành, nên điều đó có ý nghĩa khi hướng dẫn viên du lịch hành nghề tự do, chỉ nhận công việc theo từng đoàn khách cụ thể. Nhằm đảm bảo quyền lợi của hướng dẫn viên, của khách du lịch cũng như của doanh nghiệp lữ hành, Luật sửa đổi quy định hướng dẫn viên phải sinh hoạt trong một tổ chức nào đó, có thể là doanh nghiệp lữ hành, doanh nghiệp chuyên cung cấp hướng dẫn viên hay hiệp hội hướng dẫn viên. Do đối tượng phục vụ khác nhau đòi hỏi hướng dẫn viên cho khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế phải có những hiểu biết khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa, thái độ ứng xử, kỹ năng nghiệp vụ…Vì vậy, Luật đã sửa đổi các quy định về hướng dẫn viên du lịch, phân chia hướng dẫn viên theo chương trình thành hướng dẫn viên du lịch nội địa và hướng dẫn viên du lịch quốc tế. Theo đó, các điều kiện cấp thẻ hướng dẫn viên, hồ sơ đề nghị cấp thẻ được điều chỉnh phù hợp với việc phân loại này. Luật cũng điều chỉnh quy định, tạo cơ chế thông thoáng, thuận tiện hơn và thay đổi nhận thức về nghề hướng dẫn viên du lịch. Việc sửa đổi đã góp phần khắc phục hạn chế, nâng cao năng lực cạnh tranh của lao động Việt Nam trong bối cảnh hội nhập ASEAN và thực thi Thỏa thuận thừa nhận nghề lẫn nhau giữa các nước ASEAN đã ký kết và phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam. Để phù hợp với thực tiễn, Luật quy định hướng dẫn viên theo chương trình du lịch và hướng dẫn viên tại điểm. Điều kiện cấp thẻ hướng dẫn viên được quy định thống nhất và đơn giản hơn, không phân biệt hướng dẫn viên nội địa và hướng dẫn viên quốc tế, chỉ căn cứ vào ngôn ngữ sử dụng khi hướng dẫn khách du lịch. Yêu cầu về trình độ cũng được điều chỉnh theo hướng giảm xuống (từ cử nhân xuống trung cấp). Quy định này nhằm giải quyết tình trạng thiếu hướng dẫn viên du lịch trong mùa cao điểm. Luật sửa đổi cũng sử dụng khái niệm hướng dẫn viên tại điểm thay thế cho khái niệm thuyết minh viên, bổ sung quy định về điều kiện, thẩm quyền cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch tại điểm. Luật sửa đổi cũng mở rộng điều kiện hành nghề hướng dẫn viên, theo đó, ngoài việc hành nghề trên cơ sở hợp đồng giao kết với doanh nghiệp lữ hành, hướng dẫn viên có thể hành nghề theo hợp đồng giao kết với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hướng dẫn hoặc tham gia tổ chức xã hội - nghề nghiệp về hướng dẫn du lịch. Để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp và sự bình đẳng của khách du lịch, Luật sửa đổi đã quy định nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành mua bảo hiểm cho tất cả các khách thay vì mua bảo hiểm cho khách du lịch Việt Nam ra nước ngoài. Nhằm phù hợp với quy định của Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp, Luật du lịch sửa đổi quy định doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được kinh doanh lữ hành đưa khách du lịch vào Việt Nam và đưa khách du lịch Việt Nam ra nước ngoài, không giới hạn ở loại hình doanh nghiệp để đảm bảo quyền lợi cho khách du lịch, tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ và tính chuyên nghiệp trong hoạt động lữ hành.

Luật quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm, trong đó có quy định nghiêm cấm làm phương hại đến chủ quyền, lợi ích quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, truyền thống văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc; lợi dụng hoạt động du lịch để đưa người ra nước ngoài hoặc vào Việt Nam trái pháp luật; xâm hại tài nguyên du lịch, môi trường du lịch; phân biệt đối xử với khách du lịch, thu lợi bất hợp pháp từ khách du lịch, tranh giành khách, nài ép khách mua hàng hóa, dịch vụ; kinh doanh trong lĩnh vực du lịch khi chưa đủ điều kiện, không có giấy phép kinh doanh hoặc không duy trì điều kiện kinh doanh trong quá trình hoạt động theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; sử dụng giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành của doanh nghiệp khác hoặc cho tổ chức, cá nhân khác sử dụng giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành của doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh; hành nghề hướng dẫn du lịch khi không đủ điều kiện hành nghề; quảng cáo không đúng loại, hạng cơ sở lưu trú du lịch đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận; quảng cáo về loại, hạng cơ sở lưu trú du lịch khi chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận…

Đối với việc bảo vệ môi trường du lịch, Luật khẳng định: Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình ban hành quy định nhằm bảo vệ, tôn tạo và phát triển môi trường du lịch; UBND các cấp có biện pháp bảo vệ, tôn tạo và phát triển môi trường du lịch phù hợp với thực tế của địa phương; Tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch có trách nhiệm thu gom, xử lý các loại chất thải phát sinh trong hoạt động kinh doanh; khắc phục tác động tiêu cực do hoạt động của mình gây ra đối với môi trường; có biện pháp phòng, chống tệ nạn xã hội trong cơ sở kinh doanh của mình; Khách du lịch, cộng đồng dân cư và các tổ chức, cá nhân khác có trách nhiệm bảo vệ và gìn giữ cảnh quan, môi trường, bản sắc văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc; có thái độ ứng xử văn minh, lịch sự nhằm nâng cao hình ảnh đất nước, con người và du lịch Việt Nam để bảo đảm môi trường du lịch phải được bảo vệ, tôn tạo và phát triển theo hướng xanh, sạch, đẹp, an ninh, an toàn, lành mạnh và văn minh. Về kinh doanh dịch vụ du lịch khác, khách du lịch ngoài việc sử dụng các dịch vụ du lịch cơ bản như lữ hành, hướng dẫn du lịch, lưu trú du lịch còn có thể sử dụng nhiều dịch vụ liên quan như mua sắm, ăn uống, giải trí, thể thao,… để đảm bảo chất lượng dịch vụ cung cấp, bảo vệ quyền lợi cho khách du lịch, góp phần xây dựng thương hiệu sản phẩm du lịch và hình ảnh của tổ chức, cá nhân kinh doanh, Luật du lịch sửa đổi quy định việc cấp biển hiệu đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch cho cơ sở kinh doanh du lịch. Bên cạnh đó, các quy định về nguyên tắc phát triển du lịch; chính sách phát triển du lịch; quyền và nghĩa vụ của khách du lịch; phát triển sản phẩm du lịch; kinh doanh du lịch trực tuyến;  điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền công nhận điểm du lịch… cũng được quy định rất đầy đủ, cụ thể .

Trong bối cảnh phát triển của du lịch Việt Nam có nhiều thay đổi, nhất là trong giai đoạn gần đây. Du lịch thế giới và khu vực châu Á Thái Bình Dương phát triển mạnh cùng với quá trình phát triển kinh tế nhanh, hội nhập sâu rộng của Việt Nam với thế giới và khu vực ASEAN, tạo ra những cơ hội và cả thách thức cho phát triển ngành du lịch. Những đòi hỏi về nguồn lực tăng trưởng và thay đổi cấu trúc kinh tế tại Việt Nam đặt ra nhiệm vụ mới cho ngành du lịch để trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, một trong những động lực quan trọng cho tăng trưởng của đất nước trong thời gian trước mắt. Những điều này được khẳng định trong chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Bên cạnh đó, Luật Du lịch sau 10 năm thực thi cũng bắt đầu bộc lộ những điểm không phù hợp với thực tiễn của hoạt động kinh doanh và quản lý du lịch. Việc hoàn thiện và thông qua Luật Du lịch sửa đổi sẽ tạo hành lang pháp lý thuận lợi, phù hợp với quy mô, tốc độ phát triển của hoạt động du lịch trong xu thế hội nhập đồng thời giúp tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về du lịch, đảm bảo quyền của người dân được hưởng thụ các giá trị du lịch văn hóa, nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí lành mạnh, an toàn và góp phần phát triển kinh tế trong nước, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch Việt Nam phát triển bền vững và hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Tap-huan-BCV-(thang-4)-1.jpg 
 

Bà Đặng Thanh Thủy – Phó Giám đốc Sở VHTT-DL
triển khai Luật Du Lịch - Ảnh 2: Q.K (TTT Đồng Nai)

Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 có nhiều quy đinh để hỗ trợ các Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Doanh nghiệp siêu nhỏ, Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.

Nội dung tóm tắt của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa:

1. Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh

a) Điều kiện được hỗ trợ:

- Trước khi thành lập doanh nghiệp, hộ kinh doanh đã đăng ký và hoạt động theo quy định của pháp luật;

- Hộ kinh doanh có hoạt động sản xuất, kinh doanh liên tục ít nhất là 01 năm tính đến ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu.

b) Nội dung hỗ trợ:

- Tư vấn, hướng dẫn miễn phí về hồ sơ, thủ tục thành lập doanh nghiệp;

- Miễn lệ phí đăng ký doanh nghiệp và phí cung cấp thông tin doanh nghiệp lần đầu; miễn phí thẩm định, phí, lệ phí cấp phép kinh doanh lần đầu đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; miễn lệ phí môn bài trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu;

- Tư vấn, hướng dẫn miễn phí về các thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu;

- Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp;

- Miễn, giảm tiền sử dụng đất có thời hạn theo quy định của pháp luật về đất đai.

- Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo.

c) Điều kiện được hỗ trợ:

- Là Doanh nghiệp được thành lập để thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh.

- Có thời gian hoạt động không quá 05 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu;

- Chưa thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng đối với công ty cổ phần.

d) Nội dung hỗ trợ:

- Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ sử dụng trang thiết bị tại cơ sở kỹ thuật; hỗ trợ tham gia cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung; hướng dẫn thử nghiệm, hoàn thiện sản phẩm mới, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới;

- Hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây dựng, phát triển sản phẩm; thu hút đầu tư; tư vấn về sở hữu trí tuệ; thực hiện các thủ tục về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng;

- Hỗ trợ thông tin, truyền thông, xúc tiến thương mại, kết nối mạng lưới khởi nghiệp sáng tạo, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo;

- Hỗ trợ thực hiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ;

- Trong từng thời kỳ, Chính phủ quyết định chính sách cấp bù lãi suất đối với khoản vay của doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Việc cấp bù lãi suất được thực hiện thông qua các tổ chức tín dụng.

 

                                                Lê Quang Kiệm (Thanh tra tỉnh Đồng Nai)


In nội dung
Các tin đã đăng ngày
Select a date from the calendar.
 
Về đầu trang  
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THANH TRA TỈNH ĐỒNG NAI
Chịu trách nhiệm xuất bản: Ông Nguyễn Ngọc Thắng - Chánh Thanh tra tỉnh Đồng Nai
Địa chỉ: Số 1126, đường Phạm Văn Thuận, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
Điện thoại: 0251.3822550; Fax: 0251.3816979; E-mail: vbthanhtra@dongnai.gov.vn
ĐĂNG NHẬP