Về khái niệm tham nhũng trong khu vực tư hiện nay ở Việt Nam chưa
có công trình nghiên cứu cụ thể. Tuy nhiên, có thể tham khảo khái quát tham
nhũng trong khu vực tư được bao hàm trong khái niệm về tham nhũng như sau: “Tham nhũng là hành vi trái pháp luật của
người có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao thực hiện công vụ, nhiệm vụ nhưng đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc công vụ, nhiệm vụ đó để vụ lợi cá nhân, làm
thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân”[1].
Tham nhũng trong lĩnh vực tư xảy ra trên nhiều lĩnh vực như: Cung
cấp dịch vụ điện nước, cơ sở hạ tầng, cho thuê mặt bằng. Một số cán bộ lãnh
đạo, nhân viên các ngân hàng thương mại thoái hóa, biến chất được các doanh
nghiệp móc nối, hối lộ đã cho vay sai nguyên tắc, vượt quá khả năng thanh toán,
thông đồng với đối tượng vay nhận hồ sơ thế chấp không hợp lệ, hồ sơ giả, nâng
khống giá trị tài sản thế chấp để vay tiền, dẫn đến hàng nghìn tỷ đồng của Nhà
nước bị thất thoát. Một số nhân viên ngân hàng, kho bạc, quỹ tín dụng lợi dụng
nhiệm vụ được giao như quản lý kho, quỹ vay tiền ngân hàng để mua chứng khoán
hoặc cho vay lại với lãi suất cao hơn, khi bị thua lỗ, lừa đảo mất khả năng trả
nợ, gây thiệt hại lớn. Đặc biệt, đã xuất hiện loại tội phạm tham nhũng mới với
tính chất hết sức nghiêm trọng như tham ô, cố ý làm trái và lừa đảo qua mạng
hay các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán (như sử dụng thông tin nội bộ để
mua bán chứng khoán - giao dịch nội gián hay thao túng giá chứng khoán…).
Trên thực tế tham nhũng không chỉ có trong
mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khu vực nhà nước mà giữa các doanh nghiệp với
nhau cũng xảy ra hiện tượng tham nhũng. Trong nội bộ các doanh nghiệp tư nhân,
cũng xảy ra hiện tượng một số người nắm giữ quyền hạn trong việc quản lý tiền
và tài sản của doanh nghiệp đã lợi dụng quyền hạn được giao chiếm đoạt tài sản
đó; hay sự thiếu minh bạch và lành mạnh trong hoạt động của các ngân hàng, các
loại quỹ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân… đã gây ra những tác động
tiêu cực cho nền kinh tế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân.
Đồng thời, dưới góc độ kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực tư sẽ làm tăng chi
phí và giảm đáng kể lợi nhuận của doanh nghiệp, làm hình thành những thói quen
kinh doanh thiếu lành mạnh, làm méo mó bản chất các quan hệ kinh tế.
Theo lý thuyết kinh tế, tham nhũng được nhìn nhận trên hai quan
điểm đó là: Tham nhũng là yếu tố ngoại sinh và là nhân tố nội sinh trong chính
trị. Nếu áp dụng một trong hai quan điểm trên, tham nhũng được chia thành ba
loại cơ bản như sau: Một là, tham nhũng để đẩy nhanh tiến độ; hai là, tham
nhũng hành chính và ba là tham nhũng nhằm “bẻ cong pháp luật”. cụ thể:
Đối với tham nhũng để đẩy nhanh tiến độ: Là việc thực hiện một quyền cụ thể
nào đó mà công dân hoặc pháp nhân nào đó có quyền được hưởng một lợi ích cụ thể
là vật chất hoặc phi vật chất nhưng không phải là “ăn cắp”. Ví dụ: Một người
nào đó đút lót cho công chức phụ trách cấp phép đăng ký kinh doanh để được cấp
giấy phép nhanh hơn theo quy định, tức là không có rào cản pháp lý nào đối với
việc cấp phép đăng ký kinh doanh của công chức đó, thì đây chính xác là loại
tham nhũng để đẩy nhanh tiến độ. Một hình thức cụ thể và rõ hơn của nó là hối
lộ người có quyền để họ “ưu tiên” giải quyết vấn đề gì đó nhưng hoàn toàn hợp
pháp. Nói cách khác, các công chức nhận đút lót mới làm công việc của họ hoặc
làm công việc đó nhanh hơn thường lệ, thay vì không làm. Mức độ thường xuyên
của loại tham nhũng này là một bằng chứng rõ ràng chứng tỏ năng lực và mức độ
hiệu quả trong bộ máy hành chính của nhà nước.
Đối với tham nhũng hành chính: Là vi phạm các quy định của pháp
luật, hoặc việc thực thi pháp luật mang nặng tính thiên vị. Đây là tham nhũng
trong bộ máy hành chính Nhà nước và là loại tham nhũng được nói tới nhiều nhất
- đại đa số những đóng góp về lý thuyết trong lĩnh vực này đều bàn về tham
nhũng trong bộ máy hành chính Nhà nước. Loại tham nhũng này phù hợp với mô hình
cấp trên - cấp dưới trong tham nhũng vì toàn bộ việc thực hiện tham nhũng đều
do các công chức gây ra. Hậu quả trực tiếp nghiêm trọng nhất của loại tham
nhũng này là các đạo luật và chính sách của nhà nước không được thực hiện một
cách công bằng.
Đối với tham nhũng nhằm “bẻ cong pháp luật”: Mục đích thay đổi các
quy định của pháp luật thành những quy định phục vụ cho quyền lợi của những kẻ
tham nhũng. Có thể hiểu “bẻ cong luật pháp” bằng giải định đó là “các đạo luật và chính sách của nhà nước chịu
sự chi phối của một số ít chính trị gia hoặc những doanh nhân rất có có thế lực
đã hối lộ các đại biểu quốc hội. Nói cách khác, các chính sách của nhà nước
chắc chắn được ban hành để phục vụ thiểu số những kẻ có thế lực chứ không phải
nhân dân nói chung”. Mặc dù hệ thống như vậy tồn tại trên thực tế và loại
tham nhũng này có thể lý giải một số nhân tố cơ bản trong chính sách công ở
nhiều quốc gia. Pháp luật của nhà nước có thể bị bẻ cong trước tình trạng vận
động hành lang ồ ạt và tham nhũng.
Thực tiễn hiện nay, tham nhũng là một vấn nạn và
thách thức đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Theo Diễn
đàn Doanh nghiệp Việt Nam tiến hành năm 2017 đã chỉ ra rằng “tham nhũng được xem là một rủi ro lớn đối
với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Hối lộ đã trở thành một vấn nạn trong
kinh doanh và rất nhiều công ty xem đây là một vấn đề không tránh khỏi và không
có cách giải quyết”[2]. Theo số liệu của Diễn đàn Kinh tế thế
giới, Việt Nam đứng thứ 81 về Đạo đức và Tham nhũng; đứng thứ 109 về các Chi
phí Không chính thức và Hối lộ trong tổng số 137 quốc gia được khảo sát[3].
Trong kinh doanh, doanh
nghiệp được nhìn nhận đóng vai trò như “mắt xích kép”: Vừa là nạn nhân, vừa là
tác nhân gây ra tham nhũng. Có đến 66% doanh nghiệp dân doanh trong nước đã
phải chi trả các chi phí không chính thức và 59% doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài (FDI) phải trả chi phí không chính thức khi làm thủ tục hải quan[4].
Đồng thời, 61,5% doanh nghiệp có hành vi biếu tiền và hầu như tất cả các doanh
nghiệp đều có “lại quả” cho đối tác[5]. Hầu như doanh nghiệp làm
việc với cơ quan nhà nước nào cũng đều có chi phí không chính thức cho cơ quan
đó. Trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong kinh doanh, các hình thức
tham nhũng ít được nhận diện hơn vì bản thân doanh nghiệp chưa tự nhận thức
được vấn đề này. Hơn nữa, tham nhũng trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp
thuộc khu vực tư chưa phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên, doanh nghiệp
cũng luôn sẵn sàng “lại quả” theo giá trị hợp đồng. Đây được xem như một thông
lệ trong giao dịch để giữ mối quan hệ hay thúc đẩy các hoạt động khác như thanh
toán, giao nhận…Trong bối cảnh tham nhũng trong khu vực tư, đặc biệt là trong
kinh doanh đang ngày càng phát triển và có nguy cơ gây ra hệ lụy nghiêm trọng
đối với sự ổn định, phát triển kinh tế- xã hội, một yêu cầu tất yếu đặt ra đó
là phòng chống tham nhũng trong kinh doanh cần phải tiến hành đồng bộ, song
song với công tác phòng chống tham nhũng trong khu vực tư. Khu vực tư không chỉ
là nạn nhân của tham nhũng mà còn là tác nhân, chủ thể gây nên tham nhũng bởi
những hành vi đưa hối lộ đến những chủ thể có chức vụ, quyền hạn trong khu vực
công để đạt được dự án hay sự ưu đãi đối với hoạt động kinh doanh của mình.
Trong thời gian qua, Việt
Nam đã có nhiều nỗ lực và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng
bước hình thành, có nhiều đặc điểm của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập nhưng Việt Nam vẫn bị xếp hạng thấp nhất trong số sáu nước thành viên
ASEAN (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan) xét về khía
cạnh quản trị doanh nghiệp [6]. Điều này chứng minh rằng Việt
Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của việc xây dựng và thực thi các chính sách liên
quan đến chống hối lộ. Theo đánh giá tác động của dự thảo Luật phòng, chống
tham nhũng sửa đổi đã xác định: Thực tiễn hiện nay cho
thấy, tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước diễn ra khá nghiêm trọng, phức
tạp, tuy nhiên lại chưa được Luật Phòng, chống tham nhũng điều chỉnh. Nhiều quan điểm cho rằng nếu Luật Phòng, chống tham
nhũng không đưa khu vực tư vào đối tượng điều chỉnh, kiểm soát thì việc phòng,
chống tham nhũng trong khu vực công sẽ giảm đi hiệu quả đáng kể. Vì trong điều
kiện hiện nay, sự kết nối các mối quan hệ công tư diễn ra trong nhiều lĩnh vực,
chặt chẽ, đan xen lẫn nhau. Nhiều chuyên gia ví khu vực công - tư như “bình thông nhau”, bởi trong nhiều
trường hợp, khu vực tư chính là nơi nơi trú ẩn, “rửa tiền”, là “sân sau” của
những quan chức có hành vi tham nhũng trong khu vực công. Bởi vậy, việc phòng,
chống tham nhũng sẽ không có ý nghĩa nếu bỏ qua khu vực tư và phòng, chống tham
nhũng trong khu vực tư cũng chính là để phòng, chống tham nhũng trong khu vực
công. Đặc biệt, một trong 08 nhóm nhiệm vụ, giải pháp
được nêu rõ tại Kết luận số 10-KL/TW ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị về việc
tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí liên quan đến phạm vi
điều chỉnh của Luật PCTN đó là “Từng bước
mở rộng hoạt động phòng, chống tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước”.
Để phòng, chống tham nhũng hiệu quả trong khu vực tư, theo tác giả
cần có một số giải pháp cụ thể như sau:
Thứ
nhất, đối với doanh
nghiệp cần ý thức rõ về tác động tiêu cực của tham nhũng, lưu ý đến cả những
tham nhũng vặt. Tăng cường chuẩn mực đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh
nghiệp, quản trị tốt, tăng cường thực thi hiệu quả kiểm soát nội bộ, phòng ngừa
tham nhũng, đào tạo hướng dẫn và hỗ trợ nhân viên. Phòng, chống tham nhũng
trong khu vực tư nên triển khai đồng bộ ở cả ba cấp độ, đó là: Trong nội bộ
doanh nghiệp, với các đối tác kinh doanh và tham gia các hành động tập thể. Cụ
thể như sau:
Trong nội bộ doanh nghiệp: Xây dựng và áp dụng các biện pháp phòng,
chống tham nhũng đã được chuẩn hóa như Bộ tiêu chuẩn ISO 37001[7]
hoặc Bộ Nguyên tắc Phòng chống Hối lộ trong Kinh doanh[8]; đánh giá sự
liêm chính của người lao động thông qua việc kiểm tra tham chiếu với nơi làm
việc trước đó của người lao động; áp dụng và thực thi hiệu quả chính sách kê
khai nguy cơ xung đột lợi ích và phòng chống xung đột lợi ích[9]. Thiết
lập và đảm bảo việc vận hành hiệu quả kênh báo cáo tố cáo hành vi sai phạm,
tham nhũng của doanh nghiệp (do doanh nghiệp tự vận hành hoặc thuê công ty dịch
vụ độc lập) để tiếp nhận khiếu nại, tố cáo (kể cả ẩn danh) với chính sách, quy
trình rõ ràng, dễ hiểu và tin cậy - làm cơ sở cho việc tăng cường giám sát thực
thi các chính sách liêm chính của doanh nghiệp. Tùy theo điều kiện, doanh
nghiệp có thể lựa chọn một đơn vị thức ba thực hiện điều này để đảm bảo tính
khách quan và bảo mật thông tin.
Đối với đối tác kinh doanh: Cần rà soát đối tác kinh doanh trước
khi quyết định hợp tác kinh doanh. Đưa vào phạm vi rà soát những tiêu chí liên
quan tới hành vi tham nhũng, hối lộ trong quá khứ, và năng lực phòng, chống rủi
ro tham nhũng của đối tác.
Về việc tham gia các hành động tập thể: Nên ủng hộ và tham gia các
hành động tập thể của hiệp hội, câu lạc bộ, nhóm doanh nghiệp như: Nhóm công
tác về Quản trị và Liêm chính (GIWG) thuộc Diễn đàn Doanh nghiệp Việt nam
(VBF), sáng kiến Liêm chính trong kinh doanh trong khuôn khổ Đề án 12 của Phòng
Thương Mại và Công nghiệp Việt nam (VCCI),…để cùng thúc đẩy và chia sẻ các
chuẩn mực và thông lệ tốt về liêm chính trong kinh doanh, bảo vệ những doanh
nghiệp là nạn nhân của tham nhũng, tố cáo những doanh nghiệp sử dụng tham nhũng
để trục lợi và gây tổn hại tới doanh nghiệp khác.
Thứ
hai, Nhà nước cần tạo
cơ sở pháp lý vững chắc cho doanh nghiệp tham gia phòng, chống tham nhũng; một
khuôn khổ thể chế đầy đủ, chặt chẽ, thống nhất và xem đó là điều kiện tiên
quyết để phòng, chống tham nhũng hiệu quả trong khu vực tư ở Việt Nam hiện nay.
Cụ thể: Chính phủ cần tiếp tục cải cách và hoàn thiện pháp luật về phòng, chống
tham nhũng trên cơ sở cân nhắc các văn bản luật chuyên ngành liên quan trực
tiếp đến doanh nghiệp như: Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, Luật Hải quan,
các luật về thuế…. để loại bỏ những quy định gây cản trở sự lành mạnh và thông
suốt của môi trường kinh doanh theo định hướng của Nghị quyết 19-2017/NQ-CP ngày
06/02/2017 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm
2017, định hướng đến năm 2020.
Nội luật hóa và thực thi Công
ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng theo đúng lộ trình, phù hợp với điều
kiện và pháp luật của Việt Nam. Từng bước mở rộng đối tượng phòng, chống tham
nhũng, trước hết cần lựa chọn khu vực tư có nguy cơ cao phát sinh hành vi lợi
dụng chức vụ, quyền hạn và hành vi đó gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội và cá
nhân, tổ chức có liên quan.
Lê Quang Kiệm - Thanh tra tỉnh Đồng Nai
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
[1] Lê Quang Kiệm (2018), “Sửa đổi, bổ sung khái niệm và chủ
thể của tham nhũng góp phần hoàn thiện các quy định về phát triển và xử lý tham
nhũng hiện hành”, http://tcdcpl.moj.gov.vn, ngày 30/7/2018
[2]. Phân tích về rủi ro tham nhũng đối với các nhà đầu tư ở
Việt Nam, tháng 2 năm 2017
(http://www.vbf.org.vn/en/documentation-center/governance-and-transparency-working-group.html?view=docman).
[3].
https://www.weforum.org/reports/the-global-competitiveness-report-2017-2018
[4] Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Cơ quan Phát
triển Quốc tế Hoa Kỳ, Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2015, trang 18,
91.
[5] Sáng kiến Xây dựng tính Nhất quán và Minh bạch trong
Quan hệ KD tại Việt Nam - ITBI.
[6]. Báo cáo Thẻ điểm Quản trị doanh nghiệp của khu vực
ASEAN năm 2015
https://www.adb.org/sites/default/files/publication/375481/asean-cgscorecard-2015.pdf
[7]. Tổ chức Tiêu chuẩn hoá thế giới, Bộ tiêu chuẩn ISO
37001 về Chống Hối lộ
[8]. Tổ chức Minh
bạch Quốc tế, Bộ Nguyên tắc Phòng chống Hối lộ trong Kinh doanh, 2013
[9]. Tham khảo Chính sách và quy trình quản lý xung đột lợi
ích trong kinh doanh của Tổ chức Hướng tới Minh bạch.