Qua 10 năm thực hiện Chiến lược quốc gia phòng chống tham
nhũng về cơ bản các mục tiêu, giải pháp lớn của Chiến lược đã được Tỉnh ủy,
UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện. Hệ thống chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng được sửa đổi, bổ
sung ngày càng hoàn thiện; việc tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật được
quan tâm triển khai thực hiện, nhất là việc đưa nội dung giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng
vào các cơ sở giáo dục đào tạo; công cuộc đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực
được Đảng và Nhà nước chỉ đạo thực hiện quyết liệt đã có sức lan tỏa và ảnh hưởng
lớn tới xã hội, đem lại hiệu ứng tích cực.
Trong thời
gian qua, UBND tỉnh đã ban hành Chương trình, kế hoạch để triển khai thực hiện
Chương trình kế hoạch phòng chống tham nhũng và thực hiện Chương trình hành động
về phòng, chống tham nhũng cụ thể: Chương
trình hành động số 766/CTr-UBND ngày 25/01/2013 của UBND tỉnh (gọi tắt là
Chương trình hành động) về thực hiện Nghị quyết số 82/NQ-CP ngày 06/12/2012 của
Chính phủ (giai đoạn 2012-2016); Kế hoạch số 670/KH-UBND ngày 22/01/2018 của Chủ
tịch UBND tỉnh về thực hiện Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 29/11/2017 của Chính
phủ về Chương trình hành động thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng đến
năm 2020; ngoài ra, định kỳ hằng năm UBND tỉnh ban hành các kế hoạch về công
tác phòng chống tham nhũng và thực hiện Chương trình hành động về phòng chống
tham nhũng để chỉ đạo triển khai thực hiện trên toàn tỉnh.
Thực hiện
Quyết định số 4061/QĐ-BTP ngày 14/10/2011 của Bộ Tư pháp phê duyệt Đề án “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật
phòng, chống tham nhũng, Công ước Liên hiệp quốc về chống tham nhũng trong cán
bộ, công chức, viên chức và nhân dân từ năm 2012 đến năm 2016” và Công văn số
1068/BTP-PBGDPL ngày 15/02/2012 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện Đề án tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng; Sở Tư pháp đã tham mưu
UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 3114/KH-UBND ngày 07/5/2012 về triển khai thực
hiện Đề án “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật phòng, chống tham nhũng, Công ước
Liên hiệp quốc về chống tham nhũng trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân
dân từ năm 2012 đến năm 2016”.
Để thực hiện có hiệu quả công tác phổ
biến, tuyên truyền, UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương căn cứ
lĩnh vực quản lý phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục để đưa tin, bài,
khẩu hiệu phục vụ công tác tuyên
truyền, phổ biến trên báo, đài, trang thông tin điện tử các nội dung, quy định
liên quan kỷ luật, kỷ cương hành chính, công khai số điện thoại đường dây nóng;
đồng thời, đề nghị Đài Phát
thanh - Truyền hình Đồng Nai, Báo Đồng Nai phát huy mạnh
mẽ vai trò giám sát, tích cực tham gia phát hiện và góp ý, phê phán trước công
luận những hành vi vi phạm liên quan của cán bộ, công chức, viên chức. Ngoài
ra, UBND tỉnh chỉ đạo tăng
cường công tác thanh tra công vụ, kiểm tra cải cách hành chính tại các đơn vị,
địa phương; từ năm 2011 đến nay, đoàn kiểm tra tỉnh đã thực hiện 46 đợt thanh
tra công vụ, 157 lần kiểm tra cải cách hành chính, 72 lần kiểm tra cải cách
hành chính kết hợp với kiểm tra công vụ tại các đơn vị, địa phương; đồng thời,
trong năm 2018Ban Chỉ đạo cải cách hành chính tỉnh tổ chức kiểm tra tất cả sở, ngành,
UBND cấp huyện; các đơn vị, địa phương thực hiện 3.166 đợt kiểm tra công vụ, kết
hợp kiểm tra cải cách hành chính. Qua hoạt động thanh tra, kiểm tra đã
phát hiện những trường hợp thực hiện không đúng quy định, thực hiện chưa đảm bảo
yêu cầu về chất lượng, tiến độ theo chỉ đạo của UBND tỉnh; làm rõ trách nhiệm
cá nhân có liên quan, đồng thời kiến nghị biện pháp xử lý, chấn chỉnh những sai
sót nhằm thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ, triển khai hiệu quả công tác cải
cách hành chính tại các đơn vị, địa phương.Giai đoạn 2011- 2020, thực hiện 3.166 cuộc tại 201 đơn vị,
kiểm điểm phê bình 2.123 cá nhân, xử lý kỷ luật 454 cá nhân.
Tình hình thiệt hại do tham nhũng gây ra: Trong 10 năm
qua,đã phát hiện
68 vụ - 91 đối tượng phạm tội về tham nhũng, gây thiệt hại số tiền 44,570tỷ đồng.
Đã thu hồi cho ngân sách nhà nước trên 21,506 tỷ đồng; tài sản
không thể thu hồi khắc phục 23,063 tỷ đồng.
Trong 10
năm qua, UBND tỉnh Đồng Nai đã chủ động, tích cực triển khai thực hiện các quy
định của UNCAC, việc thực thi UNCAC đã
tạo cơ hội để tỉnh rà soát chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng
(PCTN), tăng cường thực thi, nội luật hóa các yêu cầu của Công ước; với nỗ lực
của các cấp, các ngành, công tác PCTN tiếp tục được triển khai đồng bộ, công
tác lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát, đôn đốc, kiểm tra về PCTN tiếp tục được chú
trọng; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về PCTN được tổ chức
bài bản, chặt chẽ hơn; công tác phòng ngừa tham nhũng được mở rộng và có sự
điều chỉnh phù hợp để khắc phục hạn chế, yếu kém, nâng cao chất lượng, hiệu quả
thực hiện; công tác kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, được đẩy
mạnh, xử lý nghiêm minh, kịp thời các tổ chức, cá nhân sai phạm; việc thu hồi
tài sản tham nhũng đạt kết quả tích cực.
Hệ
thống văn bản cụ thể hóa các giải pháp, chính sách còn chưa cụ thể hóa
những giải pháp đã được Chiến lược đưa ra để triển khai thực hiện
như về công khai trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, minh
bạch trong ban hành quyết định hành chính, cải cách chế độ công vụ, thu hồi tài
sản tham nhũng, đảm bảo tính độc lập của cơ quan chuyên trách trong PCTN, cơ
chế miễn nhiệm, bãi nhiệm, cho từ chức, tạm đình chỉ chức vụ của người đứng đầu
khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ
trách, khắc phục sự chồng chéo trong công tác thanh tra, tiếp nhận, xử lý thông
tin về tham nhũng.
Nhiều
văn bản pháp luật cụ thể hóa các giải pháp, chính sách qua quá trình thực hiện
đã bộc lộ hạn chế, bất cập nhưng việc sửa đổi, bổ sung, khắc phục còn chậm;
việc cụ thể hóa các biện pháp phòng ngừa tham nhũng khi xây dựng, hoàn thiện
thể chế, chính sách trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội chưa được chú trọng đúng
mức. Đề án nghiên cứu kết hợp tổ chức và hoạt động thanh tra với tổ chức và
hoạt động kiểm tra của Đảng; Đề án truyền thông về PCTN đến năm 2020; Đề án
kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; Đề án nghiên cứu học tập
việc thực hiện điều tra đặc biệt của các nước; xây dựng quy định áp dụng điều
tra đặc biệt quản lý theo quy trình chặt chẽ. Các văn bản cụ thể hóa giải pháp
của Chiến lược về cải cách tổ chức bộ máy, công khai, minh bạch, trách nhiệm
giải trình,
đảm bảo đời sống của cán bộ, công chức, kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,
công chức, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu, thu hồi tài sản tham
nhũng, phát huy vai trò của người dân thông qua tố cáo, phản ánh về
tham nhũng còn hạn chế.
Giai đoạn 1 và giai đoạn
2 của Chiến lược cũng không có tổng kết, đánh giá một cách chính thức; việc tổng
kết chủ yếu đánh giá việc thực hiện kế hoạch ban hành các văn bản mà chưa có
đánh giá tổng thể việc đạt được mục tiêu theo giai đoạn, vì vậy, khó giải quyết
được tận gốc những hạn chế đặt ra.
Hồ
Thị Thu - Phòng NV3