Khái quát chung: Trong
những năm gần đây, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến công tác phòng, chống tham
nhũng. Nếu như trước thời kỳ đổi mới, nhận thức về tham nhũng ở Việt Nam cơ bản
chỉ giới hạn trong những hiểu biết về tham ô và vấn đề liên quan là quan liêu,
thì hiện nay, trên tất cả các khía cạnh lý luận về tham nhũng, như nguồn gốc,
bản chất, đặc điểm, nguyên nhân, hậu quả và các chiến lược, giải pháp phòng,
chống... đều đã được nghiên cứu và xác định cụ thể. Có thể nhận thấy, sự thay
đổi lớn nhất trong tư duy lý luận kể từ thời kỳ đổi mới thể hiện ở nhận thức về
bản chất và các biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Rủi ro tham nhũng trong hệ
thống chính trị và bộ máy nhà nước trước đây chưa được nhận biết rõ ràng thì
hiện nay những hạn chế đó đã được giải quyết. Sự tha hoá của quyền lực chính
trị/quyền lực nhà nước mà hậu quả chính là nạn quan liêu, tham nhũng trước đây
ít được thừa nhận, nay được xem như là một hiện tượng tất yếu, mang tính phổ
quát, diễn ra ở mọi chế độ, không phân biệt phong kiến, tư bản hay xã hội chủ
nghĩa.
Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng hệ thống
pháp luật về phòng chống tham nhũng (PCTN) một cách toàn diện. Từ chỗ chỉ có
một số văn bản pháp luật đề cập đến phòng, chống tham ô và quan liêu, lãng phí,
nhiều văn bản pháp luật về PCTN đã được ban hành và liên tục được sửa đổi, hoàn
thiện. Bắt đầu từ Pháp lệnh PCTN năm 1998, Quốc hội đã thông qua Luật PCTN năm
2005, và sau đó đã sửa đổi, bổ sung vào các năm 2007, 2012 và 2018. Cùng với
các luật này là có nhiều đạo luật chuyên ngành khác như: Bộ luật Hình sự, Luật
Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí,... được ban
hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung những quy định về PCTN. Để từng bước hoàn thiện
cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể tham nhũng, tiêu cực”, Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành hơn 250 văn bản về xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và phòng, chống tham nhũng; Quốc hội đã sửa
đổi, bổ sung, ban hành mới hơn 300 luật, pháp lệnh, nghị quyết; Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành hơn 2 nghìn nghị định, quyết định; các bộ, ngành,
địa phương đã ban hành hàng nghìn văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời thể
chế hóa và triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về quản lý
kinh tế-xã hội, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần phòng ngừa, ngăn
chặn, xử lý tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả.
Tất cả tạo thành một hệ
thống pháp luật đồng bộ trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng. Về mặt nội
dung, hệ thống chính sách, pháp luật về PCTN ở nước ta từ Đổi mới đến nay cũng
chuyển đổi từ việc chú trọng các biện pháp phát hiện, xử lý vi phạm (chú trọng
“chống”) sang cân bằng giữa “chống” và “phòng” (ngăn ngừa vi phạm xảy ra),
trong đó chú trọng, đề cao các biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Nội dung của
chính sách, pháp luật về PCTN cũng ngày càng được mở rộng, bao trùm và gắn kết
với các vấn đề liên quan như kiểm soát quyền lực, kiểm soát tài sản thu nhập,
cải cách hành chính, nâng cao đời sống và giáo dục liêm chính cho đội ngũ cán
bộ công chức, thúc đẩy quản trị quốc gia (hay quản trị nhà nước) tốt, nhằm thực
hiện chiến lược bốn không: Không thể tham nhũng, không dám tham nhũng, không
cần tham nhũng và không muốn tham nhũng. Đây cũng là cách tiếp cận phù hợp với
xu thế và kinh nghiệm quốc tế.
Những nỗ lực nêu trên
đã tạo ra những thành công đáng khích lệ trong PCTN ở nước ta, đặc biệt trong
mấy năm gần đây. Nếu như trước đây tình trạng tham nhũng trong một số lĩnh vực
diễn ra một cách phổ biến, thì hiện nay đã được kiềm chế đến một mức độ nhất
định. Trước đây, có thời điểm, PCTN được xem là “tắm từ vai trở xuống” thì hiện
nay không có vùng cấm và ngoại lệ . Nếu như trước đây có lúc công tác PCTN được
thực hiện một cách khá thụ động, có phần “bối rối”, thì hiện nay được tiến hành
ngày một chủ động hơn. Kết quả là theo Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI), Chỉ số
Cảm nhận Tham nhũng (CPI) của Việt Nam có xu hướng tăng kể từ năm 2015 đến nay
(sơ đồ kèm theo), trong đó, đặc biệt vào năm 2021, Việt Nam đạt 39/100 điểm,
xếp thứ 87/180 nước (tăng 3 bậc so với năm 2020) và là thứ hạng cao nhất từ
trước đến nay.
Chỉ số nhận thức tham
nhũng của Việt Nam trong giai đoạn 2012-2021(© Screenshot/Transparency
International)
Thực trạng công tác
phòng, chống tham nhũng hiện nay
Thực trạng công tác
phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam: Quyết tâm chính trị cùng với những hành
động quyết liệt, thực hiện những giải pháp hiệu quả của Đảng và Nhà nước, của
cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương trong công tác phòng chống
tham nhũng. Cụ thể, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được
thành lập “với mong muốn đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng thêm một bước”.
Báo cáo tổng kết 10 năm
công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012-2022 nêu rõ: 10 năm qua, cấp ủy, UBKT các cấp đã
thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168 nghìn đảng viên, trong đó có
hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, UBKT Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện
Trung ương quản lý, trong đó có 33 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, hơn
50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội
XIII của Đảng đến nay, đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó
có 8 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực
lượng vũ trang. Qua công tác thanh tra, kiểm toán đã kiến nghị xử lý trách
nhiệm gần 44.700 tập thể, cá nhân sai phạm; kiến nghị thu hồi, xử lý tài chính
hơn 975 nghìn tỷ đồng, gần 76 nghìn ha đất; chuyển cơ quan điều tra gần 1.200
vụ việc có dấu hiệu tội phạm để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật;
kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, thay thế hơn 2 nghìn văn bản pháp luật.
Công tác thu hồi tài sản tham nhũng có chuyển biến tích cực; cơ quan thi hành
án dân sự các cấp đã thu hồi 61 nghìn tỷ đồng, đạt tỷ lệ 34,7% (năm 2013, tỷ lệ
này chỉ đạt dưới 10%). Riêng các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo
đã thu hồi được gần 50 nghìn tỷ đồng, đạt tỷ lệ 41,3%. Công tác phát hiện, xử
lý tham nhũng, tiêu cực ở địa phương, cơ sở được quan tâm hơn, từng bước khắc
phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”.
Kết quả nổi bật trong
công tác phòng, chống tham nhũng thời gian qua là vai trò, trách nhiệm, sức
chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong phòng,
chống tham nhũng được nâng lên. Công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế về kinh
tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh, vừa cảnh báo, răn đe,
ngăn chặn, vừa là căn cứ để phát hiện xử lý vi phạm. Công tác kiểm tra, giám
sát, thanh tra, kiểm toán được chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ, kịp thời phát hiện
và xử lý nghiêm minh các vi phạm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ
máy Nhà nước, góp phần đắc lực nâng cao hiệu quả phòng chống tham nhũng. Công
tác phòng, chống tham nhũng có nhiều chuyển biến tích cực cả về phòng ngừa và
phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng. Nhiều vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm
trọng, phức tạp đã được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều tra, truy tố, xét
xử nghiêm minh. Tham nhũng bước đầu được kiềm chế, góp phần giữ vững ổn định
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, củng cố niềm tin của Nhân
dân với Đảng, với chế độ.
Kết quả này là minh
chứng cho những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội đã được Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng khẳng định một lần nữa quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: “Nâng cao năng lực lãnh
đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa” . Đây chính là những
tư tưởng, định hướng chỉ đạo xuyên suốt về các nhiệm vụ xây dựng, phát triển
đất nước trong giai đoạn tới, trước mắt là tư tưởng chỉ đạo đối với các nhiệm
vụ và giải pháp triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đúng
theo lời đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Công tác xây dựng Đảng luôn luôn là
nhiệm vụ then chốt của Đảng, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp
cách mạng nước ta”. Nội dung về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị giữ vị trí
đặc biệt quan trọng trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng với gần một nửa số bài viết. Vị trí quan trọng này phản ánh
vai trò, vị trí có ý nghĩa quyết định của công tác xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị đối với sự nghiệp cách mạng nói chung và công cuộc đổi mới nói riêng,
cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Nội dung các vấn đề về xây dựng Đảng và
hệ thống chính trị bao quát một cách toàn diện, từ cơ sở lý luận chung đến
những vấn đề cụ thể về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, kiểm tra, dân vận, đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân. Xuất phát từ quan điểm chỉ đạo “Sự lãnh
đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước
ta”, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Công tác xây dựng Đảng luôn luôn là nhiệm
vụ then chốt của Đảng, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng
nước ta”
Thực trạng công tác
phòng, chống tham nhũng tại Đồng Nai:
Trong 10 năm qua, Đảng
bộ và UBND tỉnh Đồng Nai đã quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống
tham nhũng, kết quả:
Qua công tác kiểm tra,
tự kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đơn vị phát hiện và xử lý xong 02 vụ việc
tham nhũng qua công tác tự kiểm tra nội bộ. Số tiền phát hiện và thu hồi
12.151.000 đồng và đã xử lý 03 người có hành vi vi phạm pháp luật về tham
nhũng; Qua công tác thanh tra, toàn ngành thanh tra tỉnh Đồng Nai đã triển khai
1.243 cuộc thanh tra; đã kết luận 1.241 cuộc. Nội dung thanh tra tập trung vào
các lĩnh vực đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, tài chính, ngân sách và thanh tra
trách nhiệm của Thủ trưởng các đơn vị địa phương trong việc thực hiện các quy
định pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham
nhũng. Qua thanh tra đã phát hiện vi phạm, kiến nghị thu hồi 1.450.861,641
triệu đồng/1.488.213,378 triệu đồng và 528,47ha đất; kiến nghị kiểm điểm trách
nhiệm đối với 255 tập thể và 932 cá nhân; phát hiện 36 vụ việc có dấu hiệu vi
phạm pháp luật và đã chuyển cơ quan điều tra để xử lý theo quy định của pháp
luật (36 đoàn thanh tra); qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, phát hiện
07 vụ việc có dấu hiệu sai phạm được chuyển sang cơ quan điều tra. Qua công tác
điều tra, truy tố xét xử, thiệt hại do các vụ án, vụ việc tham nhũng gây ra số
tiền 36.908.740.000 đồng, đã thu hồi số tiền 33.174.017.000 đồng.
Trước đây, công tác
phát hiện các vụ việc sai phạm qua thanh tra để chuyển cơ quan cảnh sát điều
tra có tỷ lệ thấp; việc tự kiểm tra, phát hiện tham nhũng của một số cơ quan,
tổ chức, đơn vị còn yếu; việc phát hiện tham nhũng chủ yếu qua dư luận xã hội,
đơn thư tố cáo, hoặc khi có cơ quan chức năng vào làm việc kiểm tra, thanh tra,
điều tra mới phát hiện sai phạm; một số cơ quan, đơn vị, người đứng đầu chưa quyết
liệt trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác PCTN. Những năm gần đây, các
cấp, các ngành đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN nói chung; công tác
phát hiện, chuyển giao, tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố các vụ việc có dấu hiệu tội phạm về tham nhũng, kinh tế, tiêu cực
nói riêng. Trong đó công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra để phát hiện, kiến
nghị, xử lý tham nhũng đã được quan tâm hơn. Công tác phát hiện, chuyển giao,
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm kinh tế, tham nhũng, tiêu cực có
nhiều chuyển biến tích cực.
Được sự quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo thường xuyên của Tỉnh ủy, công tác PCTN, tiêu cực trên địa bàn
tỉnh thời gian qua, đặc biệt là kể từ sau khi có Luật Phòng chống tham nhũng
mới năm 2018 (có hiệu lực từ 01/7/2019) thì công tác PCTN của tỉnh đã đạt được
những kết quả quan trọng như: các đơn vị, địa phương đã kịp thời triển khai,
quán triệt, tuyên truyền các quy định pháp luật về PCTN, gắn với việc thực hiện
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; việc công khai, minh bạch
trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được thực hiện nghiêm túc; công
tác kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức (CBCC,VC) được
thực hiện đầy đủ, đúng quy định; các chế độ, định mức, tiêu chuẩn thường xuyên
được rà soát, bổ sung hoàn chỉnh; công tác cải cách hành chính được tăng cường
và đẩy mạnh, cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông hiện đại” dần đi vào nề nếp
và phát huy hiệu quả, nên đã rút ngắn thời gian giải quyết công việc, tạo thuận
lợi cho nhân dân và doanh nghiệp; công tác thanh tra, kiểm tra về PCTN được
tăng cường và tập trung vào lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm như: công khai minh
bạch trong quản lý tài chính ngân sách, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai,...;
các vụ việc tham nhũng phát hiện được xử lý theo quy định của pháp luật; các
lực lượng chuyên trách về PCTN từng bước được kiện toàn. Với những quyết tâm và
nỗ lực cố gắng của các ngành, các cấp nên công tác PCTN thời gian qua trên địa
bàn tỉnh đã có sự chuyển biến tích cực cả trong nhận thức lẫn hành động; qua
đó, góp phần khắc phục được những hạn chế và từng bước đẩy lùi tình trạng tham
nhũng trên địa bàn tỉnh.
Chất lượng công tác
phòng chống tham nhũng thông qua đánh giá chỉ số phòng, chống tham nhũng cấp
tỉnh đã từng bước được cải thiện (Công tác đánh giá chỉ số phòng, chống tham
nhũng cấp tỉnh được thực hiện thường xuyên từ năm 2016 đến nay. Trước năm 2019
là thực hiện thí điểm, từ năm 2020, khi Luật phòng chống tham nhũng năm 2018 có
hiệu lực từ ngày 01/7/2019 thì nội dung đánh giá này đã được đưa vào luật. Kết
quả các năm đánh giá qua các năm: năm 2016: 68.25 điểm; 2017: không đánh giá;
năm 2018: 63.45 điểm; năm 2019: 72.56 điểm; năm 2020: 69.77 điểm, giảm chung
các tỉnh phía Nam do dịch Covid không triển khai một số nhiệm vụ; năm 2021:
70.24 điểm).
Giải pháp, kiến nghị:
Ngoài việc đẩy mạnh
thực hiện tốt các giải pháp đặt ra trong các kế hoạch, chương trình PCTN của
các cơ quan có chức năng đã đặt ra, trong khuôn khổ tham luận này, Thanh tra
tỉnh nêu một số đề xuất mang tính gợi mở, trao đổi, thảo luận, nghiên cứu trong
thời gian tới để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực,
cụ thể:
Thứ nhất, các cơ Trung
ương cần sớm hoàn thiện nhanh thể chế, trong đó cần nghiên cứu tập trung vào
một số nội dung dễ xảy ra tham nhũng như:
Thể chế quản lý về đất
đai, đây là một trong những vấn đề rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến quyền
của nhà nước, người dân và dễ xảy ra tham nhũng, lợi ích nhóm. Cần sớm ban hành
Luật đất đai mới để khắc phục những hạn chế, thiếu sót thời gian qua và sớm đưa
Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Cần nghiên cứu sửa đổi
các quy định về đấu thầu, hạn chế việc quy định mang nặng tính trình tự, thủ
tục, xin cho (phê duyệt chủ kế hoạch lựa chọn, giá…) rất khó quản lý nhưng lại
rất dễ dẫn đến vi phạm và mang nặng hình thức, cần nghiên cứu các quy định theo
hướng “Khoán” hay “Giao tự chủ” thực sự, tự chịu trách nhiệm và nội bộ kiểm
tra, giám sát bằng chính chất lượng, hiệu quả và thu nhập của cơ quan, đơn vị.
Các quy định về quy
hoạch, đây là vấn đề hết sức hệ trọng cho bất cứ ngành, lĩnh vực và địa phương
nào để phát triển. Do đó, việc thực hiện quy hoạch nên có cơ đặt hàng cho “cơ
quan độc lập” xây dựng và phê duyệt (Quốc hội, HĐND trực tiếp thuê tư vấn và
lập quy hoạch), không để các cơ quan quản lý, thực hiện quy hoạch làm quy
hoạch, điều chỉnh quy hoạch.
Thứ hai, vừa qua, BCH
Trung ương thông qua Nghị quyết về tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền, đây
là nội dung rất quan trọng trên mọi lĩnh vực của xã hội và cũng là giải pháp
cốt lõi trong công tác phòng, chống tham nhũng. Đề xuất cần có cơ chế bổ sung
nguồn lực cho các cơ quan tư pháp thực hiện nhiệm vụ, bỏ các quy định về “xử lý
đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo” của các cơ quan hành chính, tất cả các quan
hệ này nên được điều chỉnh bằng cơ chế Toà án phán quyết và như thế các cơ quan
hành chính sẽ phải tập trung công tác quản lý, không để xảy ra các vi phạm bị
xử lý.
Thứ ba, qua thực tiễn
công tác PCTN vừa qua, việc phát hiện các vi phạm chủ yếu các lĩnh vực nhạy cảm
đất đai, xây dựng, tài chính...việc triển khai thanh toán qua tài khoản đã hạn
chế rất nhiều các vi phạm và cũng phục vụ rất nhiều cho công tác phát hiện vi
phạm qua hoạt động thanh tra, kiểm tra. Do đó, kiến nghị Trung ương xem xét cơ
chế bắt buộc thực hiện các giao dịch chuyển nhượng đất đai, tài sản và thanh
toán mua sắm của người dân, doanh nghiệp phải thực hiện chuyển khoản qua tài
khoản ngân hàng, qua ứng dụng phần mềm, không dùng tiền mặt. Hiện nay, đa phần
người dân đều có tài khoản hoặc có điện thoại nên việc thanh toán là rất thuận
tiện. Đề xuất quy định các cơ sở kinh doanh không nhận tiền mặt hoặc nhận thì
số lượng rất nhỏ. Từ đó thúc đẩy người dân gửi tiền vào ngân hàng, ví điện tử
để thanh toán. Đây là cơ sở theo dõi, giám sát, kiểm tra và hạn chế tham nhũng,
tiêu cực.
Thứ tư, kiến nghị các
cơ quan Trung ương sớm xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản, thu nhập.
Tiến tới minh bạch hoá, tịch thu tài sản không rõ nguồn gốc, tài sản phạm tội
mà có, rửa tiền…
Thứ năm, cần có cơ chế cho các đơn vị, cá nhân tự sửa sai nếu không phải
lỗi cố ý vi phạm. Trong điều kiện nền kinh tế hội nhập và phát triển như hiện
nay, bất cứ làm gì, mua gì cũng đều có rủi ro, thậm chí bị lừa gạt. Nên trong
trường hợp này cần có chế cho đơn vị, cá nhận tự sửa sai và cũng từ đó sẽ rút kinh
nghiệm và tự khắc sẽ có giải pháp để bảo vệ chính mình, đồng thời cũng không
làm ảnh hưởng đến nhà nước, cơ quan và người khác, không để mất cán bộ, làm khó
khăn cho công tác chung, khuyến khích được tinh thần dám làm và chịu trách
nhiệm.
Thứ sáu, cơ chế hiện
nay có quy định mua sắm tập trung và có quy định “thuê kế toán trưởng”, đề nghị
nên xác định mở rộng toàn hệ thống thực hiện các cơ chế bắt buộc này để các đơn
vị có chuyên môn tài chính làm công việc tài chính; các cơ quan hành chính, sự
nghiệp tập trung vào quản lý về chuyên môn, vừa đảm bảo hiệu quả hoạt động, hạn
chế việc móc nối giữa thủ trưởng và kế toán để vi phạm, vừa bảo vệ nguồn lực
chuyên môn các ngành.
Tài liệu tham khảo: Báo
cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2012-2022;
Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội,1996; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 286-287, 289; GS. TS. Tạ Ngọc
Tấn, Tạp chí Cộng sản, 2022; Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại
phiên họp thứ nhất Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, ngày
04/02/2013; Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 226; https://ubkttw.vn/danh-muc/tin-tuc-thoi-su/hoi-nghi-toan-quoc-tong-ket-10-nam-cong-tac-phong-chong-tham-nhung-tieu-cuc-giai-doan-2012-2022.html;
https://www.transparency.org/en/cpi/2022/index/vnm;
https://laodong.vn/thoi-su/tu-quyet-dinh-cua-uy-ban-kttu-nhung-ai-co-sai-pham-deu-bi-xu-ly-nghiem-minh-616084.ldo.
Quang Châu – Phòng NV 4